chương 18/ 37

10:15 PM thứ Bảy đến 5:30 AM Chủ nhật

“Rót thêm đi, Lon.”

Rhyme uống bằng ống hút, Sellitto uống bằng cốc. Cả hai đều uống whisky không pha. Viên thám tử ngồi trên chiếc ghế mây kêu kin kít và Rhyme cho rằng anh ta trông hơi giống Peter Lorre trong phim Casablanca.

Terry Dobyns đã về sau khi đưa ra vài nhận định tâm lý gay gắt về bệnh tự yêu bản thân và về những người được chính phủ liên bang thuê mướn, Jerry Banks cũng đã ra về. Mel Cooper đang vất vả tháo và đóng gói thiết bị của anh ta.

“Này Lincoln, ngon quá.” Sellitto nhấp ly whisky Scotch của mình. “Mẹ kiếp, tôi làm gì có tiền mua cái thứ này. Nó bao nhiêu tuổi?”

“Tôi nghĩ loại này khoảng hai mươi năm.”

Viên thám tử nhìn chất rượu nâu óng. “Quý thật, nếu đây là đàn bà, thì cô ta đã trưởng thành, rồi thì sau đó.”

“Nói tôi nghe một chuyện, Lon. Polling? Cơn điên của anh ta ấy mà. Câu chuyện đó là thế nào nhỉ?”

“Bé Jimmy?” Sellitto cười. “Giờ thì anh ta đang gặp rắc rối. Anh ta là người can thiệp để loại Peretti ra khỏi vụ này và giữ nó xa tầm tay của FBI. Thực sự là anh ta liều mạng. Anh ta cũng đòi cả anh, việc này tốn chút công sức. Cần phải tác động mấy chỗ. Tôi không phải nói anh. Chỉ là một thường dân trong một vụ nóng thế này.”

“Polling yêu cầu tôi à? Tôi tưởng đấy là sếp.”

“Đúng. Nhưng Polling làm thầy dùi cho ông ta ngay từ đầu. Anh ta gọi ngay khi nghe về vụ bắt cóc và ở hiện trường lại có mấy vật chứng ma.”

Và anh ta muốn có mình? Rhyme băn khoăn. Thật lạ. Rhyme không có liên hệ gì với Polling suốt mấy năm qua – từ vụ giết cảnh sát mà anh bị thương. Polling làm vụ này và cuối cùng cũng tóm được Dan Shepherd.

“Cậu có vẻ ngạc nhiên”, Sellitto nói.

“Về việc anh ta yêu cầu tôi? Có chứ. Chúng tôi không hợp nhau lắm. Ít nhất là trước đây.”

“Sao lại thế?”

“Tôi 13-43[106] anh ta.”

Mẫu đơn khiếu nại của NYPD.

“Năm, sáu năm trước khi anh ta còn là một viên thiếu úy, tôi thấy anh ta thẩm vấn nghi phạm ngay tại hiện trường đã được bảo vệ. Làm nó bị ô nhiễm. Tôi nổi đóa. Cho chuyện này vào báo cáo và nó được trích dẫn trong một lần đánh giá nội bộ của anh ta – lần anh ta bắn nghi phạm không có vũ khí.”

“Thế à, thế thì tôi nghĩ cậu đã được tha thứ, vì anh ta đã rất cần cậu.”

“Lon, làm ơn gọi điện giúp tôi được chứ?”

“Tất nhiên.”

“Không”, Thom vừa nói vừa lấy chiếc điện thoại trên tay viên thám tử. “Cứ để anh ta tự làm.”

“Tôi không có thời gian học sử dụng nó.” Rhyme nói, hất đầu về phía thiết bị quay số ECU mà Thom đã nối lúc trước.

“Anh không dành thời gian. Khác biệt lớn đấy. Anh gọi cho ai?”

“Berger”

“Không, anh sẽ không gọi”, Thom nói. “Muộn rồi.”

“Tôi đã nhìn đồng hồ”, Rhyme lạnh lùng trả lời. “Gọi cho ông ấy. Ông ấy ở One Police Plaza.”

“Không.”

“Tôi bảo cậu gọi cho ống ấy.”

“Đây.” Người trợ lý quăng một mẩu giấy xuống cạnh bàn ở xa nhưng Rhyme có thể đọc dễ dàng. Chúa có thể tước của Lincoln Rhyme nhiều thứ, nhưng Ngài đã ban tặng cho anh đôi mắt của một chàng trai. Anh quay số điện thoại bằng cằm và cái cần điều khiển. Dễ hơn anh nghĩ nhưng anh cố tình rình rang và lầm bầm khi làm. Bực mình, Thom lờ anh đi và xuống cầu thang.

Berger không có nhà. Rhyme bỏ máy, điên tiết vì không thể dập được điện thoại thật mạnh.

“Có vấn đề à?” Sellitto hỏi.

“Không”, Rhyme càu nhàu.

Ông ta đâu nhỉ? Rhyme bực mình nghĩ. Muộn rồi. Lúc này Berger phải về phòng khách sạn rồi mới đúng. Rhyme bị châm chọc bởi một cảm giác lạ lùng – ghen tị vì ông bác sĩ tử thần của anh đang giúp người khác được chết.

Sellitto bất ngờ nhẹ nhàng chép miệng. Rhyme ngước nhìn. Viên cảnh sát đang ăn thanh kẹo. Anh quên mất rằng đồ ăn sẵn là thực đơn chính của anh chàng khổng lồ này khi họ còn làm việc với nhau. “Tôi đang nghĩ. Anh nhớ Bennie Ponzo không?”

“Đội đặc nhiệm OC, mười năm trước?”

“Có.”

Rhyme thích làm việc với tội phạm có tổ chức. Bọn này là đội chuyên nghiệp. Hiện trường vụ án đầy thách thức. Nạn nhân cũng hiếm khi vô tội.

“Ai thế?” Mel Cooper hỏi.

“Một tay giết thuê từ Bay Ridge”, Sellitto nói. “Anh có nhớ sau khi ta tóm hắn, bánh kẹp kẹo.”

Rhyme cười, gật đầu.

“Chuyện thế nào?” Cooper hỏi.

Sellitto nói: “Được rồi. Khi đó chúng tôi ở Central Booking. Lincoln, tôi và mấy người nữa. Và Bennie, cậu nhớ không, một anh chàng to lớn, hắn đang ngồi gập cong người, đói meo. Bất ngờ hắn nói: ‘Này chúng mày, tao đói. Tao muốn một cái bánh kẹp kẹo.’ Chúng tôi nhìn nhau ngơ ngác, rồi tôi hỏi: ‘Bánh kẹp kẹo là cái gì?’ Hắn nhìn tôi như thể tôi vừa rơi trên Sao Hỏa xuống rồi nói: ‘Thế mày nghĩ nó là cái mẹ gì? Mày lấy thanh kẹo Hersey, mày kẹp nó vào giữa hai miếng bánh mì rồi chén. Đấy là bánh kẹp kẹo.”

Họ cười vang. Sellitto đưa thanh kẹo cho Cooper, anh ta lắc đầu, sau đó đưa cho Rhyme. Tự nhiên anh thấy muốn cắn một miếng. Một năm nay rồi anh chưa được ăn chocolate. Anh tránh những thức ăn loại này – đường, kẹo. Những thức ăn rắc rối. Những thứ nhỏ nhặt trong cuộc đời trở thành gánh nặng lớn nhất, những thứ làm anh kiệt sức và đau khổ nhất. Được, anh sẽ chẳng bao giờ còn được đi lặn hay leo núi Alps. Thế thì sao? Bao nhiêu người khác cũng chẳng làm những trò này. Nhưng mọi người đều đánh răng. Và đến nha sĩ, hàn răng, đón tàu về nhà. Mọi người xỉa răng để moi một mẩu lạc giắt trong răng hàm ra khi không ai để ý.

Tất cả mọi người, trừ Lincoln Rhyme.

Anh lắc đầu với Sellitto và hút một hơi dài whisky Scotch. Ánh mắt anh quay lại màn hình máy tính, nhớ tới bức thư tạm biệt anh đang viết cho Blaine khi Sellitto và Banks làm anh bị gián đoạn sáng hôm đó. Anh vẫn còn muốn viết thêm một vài bức thư.

Người mà anh dừng không viết cho nữa là Peter Taylor, chuyên gia cột sống. Phần lớn thời gian, Rhyme và Taylor không nói chuyện về tình hình bệnh nhân mà họ nói về cái chết. Ông bác sĩ này là người phản đối kịch liệt việc chết tự nguyện có trợ giúp. Rhyme thấy anh nợ ông ta một bức thư giải thích vì sao anh quyết định tự tử.

Và Amelia Sachs?

Con gái cớm tuần tra cũng sẽ nhận được một lời nhắn, anh quyết định thế.

Người tàn tật rộng lượng, người tàn tật tử tế, người tàn tật sắt đá…

Người tàn tật chẳng là gì nếu không tha thứ…

Amelia thân mến:

Amelia thân mến của tôi:

Amelia:

Sĩ quan Sachs thân mến:

Vì chúng ta đã có vinh dự được làm việc cùng nhau, tôi muốn nhân dịp này để nói rằng mặc dù tôi coi cô là tên Judas phản bội nhưng tôi đã tha thứ cho cô. Hơn nữa, tôi chúc cô thành công trong sự nghiệp tương lai của cô với tư cách là kẻ hôn đít báo chí…

“Chuyện của cô ta như thế nào, Lon? Sachs ấy mà.”

“Ngoài việc cô ta có tính cách kinh khủng mà tôi không biết ra?”

“Cô ta kết hôn chưa?”

“Không. Khuôn mặt và dáng người như thế thì chắc chắn anh sẽ nghĩ cô ta đã có một anh chàng đẹp giai nào đó rồi. Nhưng cô ta thậm chí còn chưa có người yêu. Chúng tôi nghe nói vài năm trước cô ta có một anh chàng, nhưng chẳng bao giờ cô ta nói đến chuyện đó.” Anh ta hạ giọng: “Có tin đồn cô ta là ô môi. Nhưng tôi không biết gì hơn thế – cuộc sống xã hội của tôi chỉ là bắt gái ở hiệu giặt đồ vào tối thứ Bảy. Này, có tác dụng đấy. Tôi còn nói gì được nữa?”

Cô phải học cách bỏ qua người đã chết...

Rhyme nghĩ về vẻ mặt cô khi anh nói điều đó với cô. Như thế là thế nào nhỉ? Sau đó anh thấy giận dữ với bản thân vì đã tốn thời gian nghĩ đến cô. Và làm thêm một hớp whisky lớn nữa.

Chuông cửa reo, sau đó là tiếng chân bước trên cầu thang. Rhyme và Sellitto nhìn ra cửa. Tiếng giày bốt của một người đàn ông cao lớn, mặc quần bó do thành phố cấp và đội chiếc mũ bảo vệ màu xanh dương. Một trong những cảnh sát chọn lọc của NYPD. Anh ta đưa cho Sellitto một chiếc phong bì kềnh càng và quay xuống cầu thang.

Viên thám tử mở phong bì. “Hãy nhìn chúng ta có gì này.” Anh ta đổ những thứ bên trong ra bàn. Rhyme bực dọc ngước lên. Ba hoặc bốn tá túi nhựa đựng chứng cứ, tất cả đều dán nhãn. Những cái túi đựng một mẩu giấy bóng kính từ túi đựng chân bê mà họ đã gửi đội ESU đi mua.

“Một tin nhắn từ Haumann.” Anh ta đọc: “Gửi: L. Rhyme, L. Sellitto. Từ: B. Haumann, TSRF.”

“Cái quái gì thế?” Cooper hỏi. Sở cảnh sát là tổ của các loại chữ viết tắt và rút gọn. RMP – tuần tra di động từ xa, thực ra là xe tuần tra. IED – thiết bị nổ ứng tác, tức là một quả bom. Nhưng TSRF là một chữ viết tắt mới. Rhyme nhún vai.

Sellitto tiếp tục đọc, vừa đọc vừa chặc lưỡi. “Đội đặc nhiệm chiến thuật siêu thị. Về việc: Chân bê. Lần tìm kiếm toàn thành phố phát hiện được bốn mươi sáu đối tượng, tất cả đều bị bắt và bị vô hiệu hóa với nỗ lực tối thiểu. Chúng tôi đã đọc cho chúng nghe quyền của mình và chuyển chúng đến nơi giam giữ là nhà bếp của mẹ sĩ quan T.P.Giancarlo. Sau khi thẩm vấn, nửa tá nghi phạm sẽ được chuyển cho các anh giám hộ. Đã được đun nóng ba trăm năm mươi độ trong ba mươi phút.”

Rhyme cười. Sau đó thêm một ngụm whisky, thưởng thức mùi vị. Đó là một điều anh sẽ nhớ, hơi thở ám khói của rượu. (Mặc dù trong sự bình yên của giấc ngủ vô cảm, làm thế nào mà ta nhớ được điều gì đó? Giống như chứng cứ, lấy đi tiêu chuẩn tối thiểu, thế là anh chẳng còn gì để đánh giá sự mất mát của mình; anh sẽ mãi mãi an toàn.)

Cooper xòe mấy mẫu ra. “Bốn mươi sáu mẫu giấy bóng kính. Mỗi chuỗi siêu thị và các cửa hàng độc lập lớn một mẫu.”

Rhyme nhìn các bản mẫu. Những thứ này rất tốt để phân loại. Phân loại đơn lẻ giấy bóng kính có thể là một công việc rất khó khăn – mẩu giấy được tìm thấy trong manh mối xương bê chưa chắc đã trùng với các mẫu giấy này. Tuy nhiên, vì các công ty mẹ thường mua vật tư tương đồng cho các cửa hàng trong chuỗi của họ, anh có thể biết 823 mua thịt bê ở chuỗi nào và thu hẹp được các khu vực sinh sống của hắn. Có thể anh phải gọi nhóm vật chứng của Cục và…

Không, không. Nên nhớ: bây giờ đấy là vụ chiết tiệt của họ.

Rhyme ra lệnh cho Cooper: “Gom chúng lại và gửi cho những người anh em liên bang của chúng ta.”

Rhyme định tắt máy tính nhưng ngón tay đôi khi vụng về của anh lại bấm nhầm nút. Loa phóng thanh phát ra một tràng thanh khóc dài ầm ĩ.

“Mẹ kiếp”, Rhyme lầm bầm khó chịu. “Máy móc chết tiệt.”

Không thoải mái với cơn giận bất ngờ của Rhyme, Sellitto liếc nhìn cốc của mình và đùa: “Quỷ thật, Rhyme, rượu ngon thế này chắc phải làm anh say đấy.”

“Tin mới đây”, Thom chua chát trả lời. “Anh ta say rồi.”

Hắn đỗ xe gần một đường ống thoát nước khổng lồ.

Lúc trèo ra khỏi xe, hắn có thể ngửi thấy mùi nước hôi thối, nhầy nhụa, chín nẫu. Họ đang ở trong một ngõ cụt dẫn đến một ống dẫn nước thải rộng chạy từ Xa lộ West Side xuống sông Hudson. Ở đây không ai có thể nhìn thấy họ.

Kẻ Tầm Xương quay xe lại, tận hưởng cảnh tượng người tù nhân lớn tuổi của hắn. Như hắn đã tận hưởng cảnh tượng cô gái bị hắn trói trước đường ống hơi nước. Và cánh tay lắc lư cạnh đường ray sáng sớm ngày hôm nay.

Nhìn chăm chăm vào đôi mắt đang hoảng sợ. Người đàn ông này gầy hơn hắn nghĩ. Tóc bạc hơn. Tóc rối bù.

Cơ thể già nhưng xương cốt trẻ…

Người đàn ông co rúm tránh xa hắn, hai cánh tay bắt chéo phòng vệ trước bộ ngực lép của ông ta.

Mở cửa xe, Kẻ Tầm Xương gí súng lục vào xương ngực người đàn ông.

“Xin ông”, tù nhân của hắn thì thầm, giọng ông ta run run. “Tôi không có nhiều tiền nhưng ông có thể lấy hết. Ta có thể ra máy ATM. Tôi sẽ…”

“Ra ngoài.”

“Xin ông đừng hại tôi.”

Kẻ Tầm Xương lấy đầu ra hiệu. Người đàn ông yếu đuối kinh hoàng nhìn quanh rồi tiến lên phía trước. Ông ta đứng bên cạnh xe, rúm ró, hai tay vẫn khoanh trước ngực, nổi gai ốc mặc dù trời nóng gay gắt.

“Sao ông làm thế?”

Kẻ Tầm Xương lùi lại và tìm chiếc còng tay trong túi. Vì đeo găng tay dày nên phải mất vài giây hắn mới tìm thấy sợi xích crom. Khi lôi chiếc còng tay ra, hắn nghĩ hắn có nhìn thấy một chiếc thuyền bốn buồm chạy trên sông Hudson. Dòng chảy ngược ở đây không mạnh như sông Đông, nơi các con tàu phải tốn rất nhiều thời gian để đi từ cầu tàu East, Montgomery và Out Ward lên phía Bắc. Hắn liếc mắt. Không phải, từ từ đã – đấy không phải thuyền buồm mà chỉ là một chiếc tàu có động cơ sang trọng, đầy đám thị dân trưởng giả.

Vươn đôi tay bị còng ra trước, người đàn ông tóm chặt áo kẻ bắt giữ mình. “Xin ông. Tôi đang đến bệnh viện. Vì thế tôi mới gọi ông. Tôi bị đau ngực.”

“Câm mồm.”

Bất ngờ, người đàn ông chộp lấy mặt Kẻ Tầm Xương, hai cánh tay đồi mồi nắm lấy cổ và vai hắn bóp mạnh. Một cơn đau lan tỏa từ chỗ móng tay màu vàng của ông ta đâm vào. Với một cơn bực tức bùng phát, hắn giằng tay nạn nhân ra và thô bạo còng tay ông ta.

Dán một miếng băng dính vào miệng người đàn ông. Kẻ Tầm Xương kéo ông ta trên con đường bờ sông trải sỏi tới miệng ống, đường kính khoảng bốn feet. Hắn dừng lại, xem xét người đàn ông.

Lột mày đến tận xương thật là dễ.

Xương cốt… chạm vào nó. Nghe tiếng nó.

Hắn nhấc tay người đàn ông lên. Hai con mắt kinh hoàng nhìn lại hắn, môi ông ta run rẩy. Kẻ Tầm Xương vuốt ve những ngón tay của người đàn ông, bóp chặt những đốt ngón tay ông ta trong những đốt ngón tay hắn (ước gì hắn có thể tháo găng tay, nhưng hắn không dám). Sau đó hắn nhấc bàn tay người đàn ông lên, áp chặt nó vào tai.

“Gì thế?...”

Bàn tay trái hắn nắm ngón tay út của người tù nhân và từ từ kéo cho đến khi hắn nghe thấy tiếng xương kêu lách cách. Một âm thanh ngọt ngào. Người đàn ông kêu thét lên, nhưng tiếng hét bị dập tắt qua miếng băng dính. Và rơi xuống đất.

Kẻ Tầm Xương kéo ông ta đứng thẳng dậy và dẫn người đàn ông bước đi vấp váp xuống tới miệng ống. Hắn đẩy người đàn ông lên phía trước.

Họ nổi lên phía dưới một cây cầu cảng cũ kỹ, mục nát. Một nơi kinh tởm, vung vãi đầy xác thú vật và cá đang thối rữa, rác rưởi trên những hoàn đá, và lớp bùn tảo bẹ mà xanh xám. Dưới nước là một đám rong biển nổi lên, chìm xuống, chất thành đống như một người béo phì. Mặc dù cả thành phố đang phải chịu cái nóng buổi tối, nhưng dưới này lại lạnh như một ngày tháng Ba.

Señor Ortega…

Hắn dìm người đàn ông xuống sông, còng ông ta vào trụ cầu cảng, bóp cho cái còng siết chặt vào cổ tay ông ta lần nữa. Khuôn mặt xám ngoét của người đàn ông còn cách mặt nước khoảng ba feet. Kẻ Tầm Xương thận trọng đi trên những hòn đá trơn tuột về phía ống cống. Hắn quay lại, ngừng một chút để nhìn, rồi tiếp tục nhìn. Hắn không quan tâm liệu cớm có tìm được những nạn nhân khác hay không. Hanna, người đàn bà trên taxi. Nhưng người này, Kẻ Tầm Xương hy vọng chúng không kịp thời tìm được ông ta. Thực sự là họ đừng nên tìm thấy ông ta. Để hắn có thể quay lại sau một hoặc hai tháng, kiểm tra xem con sông thông minh này có cọ sạch được bộ xương hay không.

Quay lại con đường trải sỏi, hắn tháo mặt nạ và để lại manh mối cho hiện trường tiếp theo, cách nơi hắn đỗ xe không xa. Hắn giận dữ, điên cuồng với bọn cớm, vì vậy lần này hắn giấu manh mối đi. Và hắn còn để lại một điều ngạc nhiên đặc biệt. Một thứ mà hắn đã luôn giữ cho chúng. Kẻ Tầm Xương quay lại chỗ chiếc taxi.

Gió thổi nhẹ, mang theo mùi của con sông ô nhiễm. Tiếng xào xạc của cỏ, và như thường lệ, cả tiếng xoẹt của xe cộ.

Nghe như tiếng giấy ráp cọ trên xương.

Hắn dừng lại và lắng nghe âm thanh đó, ngẩng đầu như thể hắn đang nhìn lên hàng tỷ ngọn đèn của các tòa nhà, kéo dài ra phía bắc như một thiên hà hình chữ nhật. Đúng lúc đó xuất hiện một người phụ nữ chạy rất nhanh trên đường chạy cạnh đường cống và thiếu chút nữa thì va vào hắn.

Mặc quần soóc và áo thể thao tím, người phụ nữ tóc nâu gầy gò nhảy sang bên để tránh đường hắn. Cô ta dừng lại, thở hổn hển, lâu mồ hôi trên mặt. Dáng đẹp – bắp thịt căng đầy – nhưng không xinh. Mũi khoằm, miệng rộng, da lem nhem.

Nhưng phía dưới thì…

“Anh không được… Anh không nên đỗ xe ở đây. Đây là đường chạy…”

Giọng nói cô ta nhỏ dần khi nỗi sợ hãi dâng lên trong ánh mắt cô, ánh mắt chuyển từ mặt hắn sang chiếc taxi, rồi tới chiếc mặt nạ trượt tuyết vo viên trong tay hắn.

Cô ta biết hắn là ai. Hắn mỉm cười khi nhìn thấy xương đòn của cô ta nổi rõ lên.

Mắt cá chân phải của cô ta hơi xê dịch, chuẩn bị chạy đi. Nhưng hắn tóm được cô ta trước. Hắn vờ cúi xuống để chặn cô ta. Cô ta thét lên một tiếng, hạ tay xuống để cản hắn, Kẻ Tầm Xương liền đứng vụt dậy, đánh khuỷu tay vào thái dương cô. Một tiếng cắc vang lên như tiếng vụt thắt lưng.

Cô ta ngã vật xuống sỏi, nằm im. Hoảng sợ, Kẻ Tầm Xương quỳ sụp xuống đỡ lấy đầu cô ta. Hắn ta rên rỉ: “Không, không, không…” Giận dữ với chính mình vì đánh quá mạnh, thực sự đau khổ vì hắn có thể đã làm vỡ một hộp sọ hoàn hảo nằm phía dưới mái tóc rối bù và một khuôn mặt tầm thường.

Amelia Sachs điền thêm một thẻ COC[107] nữa rồi đề nghị giải lao. Cô tạm dừng, đi tìm máy bán hàng tự động và mua một cốc cà phê có mùi vị kinh khủng. Cô quay lại cái văn phòng không cửa sổ, nhìn những chứng cứ mà cô thu lượm được.

Có thể vì những điều cô phải trải qua để thu thập chứng cứ – các khớp xương của cô đau nhức và cô vẫn còn rùng mình mỗi khi nghĩ đến cảnh tượng thi thể bị chôn sáng nay, một cánh tay máu me, cảnh tượng da thịt lủng lẳng của T.J. Colfax. Cho đến hôm nay thì vật chứng không có ý nghĩa gì với cô. Vật chứng chỉ là những bài học chán ngán trong những buổi chiều mùa xuân buồn ngủ ở học viện. Vật chứng là toán học, là những đồ thị và biểu đồ, là khoa học. Nó chết.

Không, Amelia Sachs sẽ là cảnh sát của công chúng. Tuần tra, xử lý bọn du côn, dọn dẹp ma túy. Truyền bá sự tôn trọng pháp luật – như cha cô đã làm. Hay nhét chúng vào. Như Nick Carelli đẹp trai, cựu chiến binh năm năm, ngôi sao của Tội phạm Đường phố, cười cả thế giới với nụ cười mày có vấn đề gì thế? của anh.

Đó là con người mà cô muốn trở thành.

Cô nhìn cái lá khô giòn màu nâu mà cô tìm thấy trong đường hầm bãi chăn gia súc. Một trong những manh mối 823 để lại cho họ. Và cái quần lót. Cô nhớ ra đặc vụ liên bang đã lấy vật chứng trước khi Cooper khám nghiệm xong bằng cái máy... Tên nó là gì nhỉ? Sắc ký khí? Cô tự hỏi chất lỏng trên lớp vải bông đó là gì?

Nhưng những ý nghĩ đó dẫn cô đến Lincoln Rhyme và anh ta lại là nhân vật mà cô không hề muốn nghĩ tới lúc này. Cô tiếp tục đăng ký nốt những vật chứng còn lại. Mỗi thẻ COC có những dòng kẻ trống để liệt kê danh sách những người quản lý vật chứng, theo thứ tự từ lúc phát hiện được trên hiện trường cho tới khi xử án. Sachs đã có vài lần chuyển giao vật chứng và tên cô cũng xuất hiện trên các tấm thẻ COC. Nhưng đó là lần đầu tiên A. Sachs, NYPD 5885 nằm ở dòng đầu tiên.

Cô nhấc cái túi nhựa đựng chiếc lá lên lần nữa.

Hắn đã sờ vào chiếc lá này. Hắn. Kẻ đã giết T.J. Colfax. Kẻ cầm cánh tay mập mạp của Monelle Gerger và cắt sâu vào đó. Kẻ lúc này đang tìm kiếm nạn nhân khác – nếu như hắn chưa tóm được một ai.

Kẻ chôn sống người đàn ông sáng ngày hôm nay, khi anh ta vẫy tay cầu xin lòng nhân từ mà anh không bao giờ nhận được.

Cô nghĩ tới Nguyên tắc Trao đổi của Locard. Con người khi giao tiếp, ai cũng sẽ chuyển cho người khác thứ gì đó. Dù lớn hay nhỏ. Và hầu hết mọi người lại không biết đến điều này.

Liệu 823 có để lại gì trong cái lá này không? Một tế bào da? Một giọt mồ hôi? Thật ngạc nhiên khi cô cảm thấy sự rung động của niềm phấn khích, của nỗi sợ hãi, như thể tên sát nhân đang ở ngay đây, trong căn phòng nhỏ xíu thiếu không khí này cùng với cô.

Quay lại với những tấm thẻ COC. Cô điền chúng trong khoảng mười phút và khi hoàn thành chiếc thẻ cuối cùng thì cánh cửa bật mở làm cô giật mình. Cô quay lại.

Fred Dellray đứng trong khung cửa, bộ vét màu xanh lá của anh ta xộc xệch, chiếc áo sơ mi được hồ cứng lúc này nhàu nát. Những ngón tay lần sờ điếu thuốc lá cài ở tai. “Ra ngoài một, hai phút được không, sĩ quan. Thời điểm thanh toán đã tới. Tôi nghĩ cô cũng muốn có mặt ở đó.”

Sachs đi theo anh ta vào một hành lang ngắn, cách anh chàng đang nhảy cẫng lên này hai bước.

“Đã có kết quả AFIS.” Dellray nói.

Phòng chiến sự trông bận bịu hơn bao giờ hết. Các đặc vụ không mặc áo vét lượn lờ bên bàn làm việc. Họ đều được trang bị vũ khí – những khẩu Sig-Sauer và Smith & Weson tự động, mười mm và .45s. Nửa tá đặc vụ đặc đang tập hợp quanh màn hình máy tính bên cạnh máy Opti-Scan.

Sachs không thích cách Dellray lấy vụ này, nhưng cô buộc phải công nhận đằng sau cái vẻ ngoài của một anh chàng mê nhạc jazz dẻo mỏ, Dellray là một cảnh sát rất giỏi. Các đặc vụ – trẻ cũng như già – đến hỏi ý kiến anh ta và anh ta kiên nhẫn trả lời họ. Anh ta giật điện thoại, phỉnh phờ hoặc nhiếc móc người phía đầu dây bên kia để có được thứ anh ta cần. Thi thoảng, anh ta nhìn quanh căn phòng đang sôi sục và gầm lên: “Ta sẽ tóm được cái thằng khốn đó chứ? Chắc chắn rồi, ta sẽ tóm được nó”. Và mọi người ném cho anh ta những cái nhìn khó chịu, nhưng đều công nhận nếu có ai bắt được hắn, người đó phải là Dellray.

“Đây rồi, có rồi đây”, một đặc vụ nói.

Dellray quát: “Tôi muốn có một đường dây mở đến DMV[108] New York, Jersey và Connecticut. Cả bộ phận Cải tạo và Tuần tra. INS nữa. Bảo họ chờ yêu cầu nhận dạng. Những người khác phải đợi.”

Các đặc vụ tỏa ra và bắt đầu gọi điện thoại.

Màn hình máy tính có tín hiệu.

Cô không thể tin rằng Dellray lại có thể thực sự chắp tay cầu nguyện.

Im lặng tuyệt đối trong phòng.

“Có hắn rồi!” Đặc vụ đang ngồi bên bàn phím la lên.

“Không còn nghi phạm nữa rồi”, giọng Dellray như hát, anh ta cúi nhìn màn hình. “Mọi người nghe đây. Ta có tên rồi: Victor Pietrs. Sinh ở đây, năm 1948. Cha mẹ hắn ta đến từ Belgrade. Như vậy là chúng ta có mối liên hệ với người Serbia. Nhận dạng được New York D of C cung cấp. Đã có tiền sử buôn ma túy, tấn công, có một vụ giết người. Đã lĩnh án. Được rồi, nghe này – có bệnh án tâm thần, ba lần bị buộc nhập viện. Bệnh nhân tại bệnh viện tâm thần Bellevue và Manhattan. Ngày ra viện cuối cùng là ba năm trước. LKA Washington Heights.

Anh ta nhìn lên. “Ai làm việc với các công ty điện thoại?”

Vài đặc vụ giơ tay.

“Gọi điện đi”, Dellray ra lệnh.

Năm phút dài như vô tận.

“Không có ở đây. Không có trong danh bạ điện thoại New York.”

“Chẳng có gì ở New Jersey, một đặc vụ khác nói.

“Connecticut, không có gì.”

“Mẹ kiếp”, Dellray lầm bầm. “Đảo tên lên xem. Thử các tổ hợp khác nhau. Tìm cả những số điện bị cắt do không trả tiền.’

Trong mấy phút, giọng nói dâng khắp nơi như thủy triều lên.

Dellray đi đi lại lại như điên, và Sachs hiểu ra vì sao người anh ta lại khẳng khiu như vậy.

Bất ngờ một đặc vụ la lớn: “Tìm thấy hắn rồi”.

Mọi người quay đầu lại nhìn.

“Tôi đang liên lạc với New York DMV[109]”, một đặc vụ khác gọi. “Họ đã tìm thấy hắn. Tin đang đến đây… hắn lái taxi. Dùng bằng giả.”

“Sao tin này lại chẳng làm mình ngạc nhiên nhỉ?” Dellray lẩm nhẩm. “Mình phải nghĩ tới điều đó mới phải. Tổ ấm ở đâu?”

“Morningside Height. Cách con sông một khối nhà.” Nhân viên đặc vụ viết địa chỉ, giơ nó lên cao khi Dellray đi qua lấy. “Tôi biết khu này. Hầu hết bị bỏ hoang. Rất nhiều bọn buôn ma túy.”

Một đặc vụ khác nhập địa chỉ vào máy tính của anh ta. “Được rồi, đã kiểm tra… Một ngôi nhà cũ. Thuộc về một ngân hàng. Chắc hắn thuê nhà.”

“Anh cần HRT chứ?” Một đặc vụ gọi từ phía bên kia căn phòng đang sôi sục. “Tôi có Quantico đang nghe điện đây.”

“Không còn thời gian”, Dellray tuyên bố. “Ta dùng đội SWAT trực chiến. Bảo họ chuẩn bị đi.”

Sachs hỏi: “Thế còn nạn nhân tiếp theo thì sao?”

“Nạn nhân tiếp theo nào?”

“Hắn đã tóm được ai đó. Hắn biết ta đã có manh mối được khoảng một, hai tiếng. Hắn đã bắt được nạn nhân tiếp theo rồi. Một lúc trước.”

“Không có báo cáo mất tích”, một đặc vụ nói. “Nếu hắn tóm được họ, có thể họ đang ở nhà hắn.”

“Không, họ sẽ không ở đó.”

“Sao không?”

“Họ sẽ thu nhặt quá nhiều vật chứng.” Cô nói. “Lincoln Rhyme nói hắn có một nơi ẩn nấp an toàn.”

“Được rồi, khi bắt được hắn, hắn sẽ nói cho ta biết họ ở đâu.”

Một đặc vụ khác nói: “Ta phải thật thuyết phục.”

“Đi thôi”, Dellray gọi. “Này mọi người, hãy cám ơn sĩ quan Amelia Sachs. Cô ấy là người tìm thấy dấu vân tay và lấy được nó.”

Cô đỏ mặt. Cô có thể cảm thấy điều đó và căm thù nó. Nhưng cô không thể giúp được mình. Khi nhìn xuống, cô thấy giày của mình có những đường lạ lẫm. Liếc mắt nhìn, cô nhận ra mình vẫn còn đeo những dải băng cao su.

Khi ngẩng lên cô nhìn thấy căn phòng đầy đặc vụ liên bang trông nghiêm nghị đang kiểm tra vũ khí và đi ra cửa khi họ liếc nhìn cô. Như người thợ rừng nhìn khúc gỗ mới đốn, cô nghĩ.

Bình luận





Chi tiết truyện